Luật sư VŨ VĂN ĐOÀN – Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh
Thạc sỹ, Luật sư – NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG THẢO
Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Tin học – Ngoại ngữ TP.HCM
(Nguồn: Bài viết được tải trên Hội thảo khoa học Quốc tế – EliS-2021 Proceedings of the International Conference on Economic, Cultural, and Legal Issues in Sustainable Development, page 226 – 234, NXB. Tài Chính, 12/2021)
Tóm tắt
Bài viết tập trung phân tích một số cơ sở pháp lý khi các thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia vào các giao dịch thương mại điện tử, là cơ sở quan trọng hình thành nên Hợp đồng thương mại điện tử. Qua việc phân tích này, bài viết chỉ ra một số quy định pháp luật hiện hành khi các bên tham gia vào các giao dịch thương mại điện tử thông qua phương tiện điện tử là internet, đồng thời nêu bật được những điểm đặc thù của Hợp đồng thương mại điện tử trong môi trường thương mại trên nền tảng internet này. Thông qua đó, bài viết nhận diện một số các bất cập đang tồn tại, có thể giúp các bên nhận biết được những rủi ro thường gặp phải khi giao dịch trên môi trường này, để có những biện pháp thích hợp để hạn chế những rủi ro mà mình gặp phải.
Từ khóa: Giao dịch điện tử, thương mại điện tử, hợp đồng thương mại điện tử, Website thương mại điện tử, Kinh doanh trên mạng xã hội…
Abstracts
The article focuses on analyzing a number of legal bases when traders, organizations and individuals participate in e-commerce transactions, which is an important basis for forming an e-commerce contract. Thereby this analysis, the article points out current legal provisions when the parties participate in e-commerce transactions through the internet, and at the same time highlights the peculiarities of e-commerce contracts in this internet-based commercial environment. Through that, the article indentifies a number of existing inadequacies, which can help the parties to recognize the risks commonly encountered when transacting in this enviroment, to take appropriate measures to limit these risks.
Keywords: E-transactions, E-commerce, E-commerce contracts, E-commerce website, Business in social networks…
Đặt vấn đề
Hợp đồng là phương thức thể hiện và là cơ sở pháp lý quan trọng khi các thương nhân đã thống nhất được ý chí mà các bên mong muốn khi tham gia vào các hoạt động thương mại. Theo cách truyền thống thông thường, hợp đồng sẽ được các bên xác lập bằng hình thức văn bản giấy, được các bên ký tên, đóng dấu xác nhận. Hiện nay với sự hỗ trợ của công nghệ, ngoài việc xác lập hợp đồng theo cách thức truyền thống như trên thì các bên còn xác lập hợp đồng theo dạng thông điệp dữ liệu – hợp đồng thương mại điện tử. Tuy nhiên, do việc xác lập hợp đồng này thông qua các thông điệp dữ liệu và được hình thành trên môi trường “ảo”, vì vậy sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bài viết sẽ phân tích làm rõ các căn cứ pháp lý cũng như đưa ra một số rủi ro mà các bên tham gia thường gặp phải.
- Hợp đồng thương mại điện tử và những căn cứ pháp lý có liên quan
Kể từ thời điểm Luật Thương Mại năm 1997 được ban hành đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho các thương nhân khi tham gia vào các hoạt động thương mại. Ngày nay, cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, trong đó sự phát triển tiến bộ của công nghệ thông tin đã trợ giúp không nhỏ trong quá trình hoạt động thương mại của các thương nhân, hỗ trợ các thương nhân giao kết các hợp đồng thương mại dưới dạng thông điệp dữ liệu, hay còn gọi là hợp đồng thương mại điện tử. Bên cạnh đó, với sự hội nhập kinh tế toàn cầu và sự hỗ trợ của công nghệ, việc giao dịch giữa các thương nhân trong nước, thương nhân quốc tế đã được đơn giản hoá hơn so với trước đây, dẫn đến việc giao dịch qua các phương tiện điện tử, thông điệp dữ liệu ngày càng được chú trọng.
Dưới góc độ pháp luật quốc tế, năm 1996 Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) đã ban hành Luật mẫu về Thương mại điện tử, trong đó công nhận việc giao dịch, thoả thuận khi các bên xác lập bằng phương tiện là các thông điệp dữ liệu[1]. Tại Việt Nam, giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu được ghi nhận tại Điều 11 Luật Giao Dịch Điện Tử năm 2005, theo đó “thông tin trong thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu” và khi các thương nhân giao dịch bằng các phương tiện dữ liệu điện tử thì được xem như là các giao dịch bằng văn bản thông thường[2].
Có thể thấy rằng, khi các thương nhân xác lập thực hiện giao dịch bằng các thông điệp dữ liệu sẽ hình thành nên các hợp đồng thương mại điện tử. Đối với các quy định về mặt khái niệm của hợp đồng thương mại điện tử, thì hiện nay Luật Thương Mại hiện hành – Luật Thương Mại năm 2005 chưa đưa ra định nghĩa về loại hợp đồng này. Tuy nhiên, trong giới nghiên cứu, một số tác giả đã đưa ra một vài khái niệm liên quan đến việc giao dịch điện tử, như “hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu hay nói cách khác là hợp đồng có sử dụng thông điệp dữ liệu” (Trần Văn Biên 2010, 35) hay “hợp đồng thương mại điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu hay nói cách khác là hợp đồng có sử dụng thông điệp dữ liệu” (Lê Thị Kim Hoa 2008, 45). Căn cứ theo quy định của một số văn bản luật có liên quan như Bộ Luật Dân Sự 2015, Luật Giao Dịch Điện Tử năm 2005 và Luật Thương Mại 2005[3], Hợp đồng thương mại điện tử có thể hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ liên quan đến hoạt động thương mại dưới dạng các thông điệp dữ liệu. Điểm khác biệt cơ bản giữa hợp đồng thương mại điện tử với hợp đồng thông thường là hình thức thể hiện. Đối với hợp đồng thông thường, hình thức thể hiện thường là bằng văn bản, còn hình thức thể hiện của hợp đồng thương mại điện tử là thông điệp dữ liệu.
Về quy trình giao kết hợp đồng thương mại điện tử, theo khoản 2 Điều 36 Luật Giao Dịch Điện Tử năm 2005, “trong giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu”, có thể thấy Hợp đồng thương mại điện tử được giao kết chủ yếu thông qua các phương tiện điện tử như hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử (email), máy điện tín (telex), máy fax, truyền hình, điện thoại, thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử, mang nội bộ và liên mạng nội bộ, Internet và website. Từ đó dẫn đến các đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng cũng sẽ được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Về giá trị pháp lý, để hợp đồng thương mại điện tử có giá trị như bản gốc thì phải đáp ứng các điều kiện sau: Thứ nhất, nội dung của thông điệp dữ liệu được bảo đảm toàn vẹn kể từ khi được khởi tạo lần đầu tiên dưới dạng một thông điệp dữ liệu hoàn chỉnh, nghĩa là nội dung đó chưa bị thay đổi, trừ những thay đổi về hình thức phát sinh trong quá trình gửi, lưu trữ hoặc hiển thị thông điệp dữ liệu; Thứ hai, nội dung của thông điệp dữ liệu có thể truy cập và sử dụng được dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết. Theo một nhà nghiên cứu cho rằng “tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu trong hợp đồng thương mại điện tử là một trong các yếu tố quan trọng để xem xét về mức độ tin cậy của hợp đồng. Biện pháp hỗ trợ cơ bản nhất để giúp phát hiện những thay đổi phát sinh của hợp đồng sau khi các bên đã thống nhất nội dung của hợp đồng là gắn chữ kí điện tử” (Lê Thị Kim Hoa 2008, 47). Thật vậy, trong các hợp đồng thương mại điện tử, việc định danh chính xác chủ thể giao kết hợp đồng hoặc có thể làm chứng cứ hợp pháp khi các bên xảy ra tranh chấp là một công việc rất quan trọng, mà chữ kí điện tử là một công cụ hỗ trợ đáng tin cậy, nhất là khi chữ kí điện tử được chứng thực bởi một tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký hợp pháp, được cơ quan có thẩm quyền cấp phép hoạt động.
Từ những phân tích trên, có thể thấy tầm quan trọng của hợp đồng thương mại điện tử trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, nhất là trong tình hình đại dịch covid 19 diễn biến phức tạp như hiện nay. Bên cạnh đó, nhu cầu giao dịch trực tuyến (online) thông qua các sàn giao dịch trực tuyến, các website thương mại điện tử ngày càng phổ biến và đang dần chiếm được lòng tin của một bộ phần không nhỏ các cá nhân, tổ chức tham gia, bởi sự thuận tiện và việc cung cấp dịch vụ có độ tin cậy cao của một số nhà cung cấp có uy tín. Do vậy, việc mua bán, trao đổi hàng hoá sẽ theo xu hướng giao dịch trực tuyến, mà cơ sở quan trọng chính là hình thành nên các hợp đồng thương mại điện tử.
- Một số điểm đặc thù của Hợp đồng thương mại điện tử trong hoạt động mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ qua mạng Internet
Như nội dung đã phân tích ở mục 1, có thể thấy, Hợp đồng thương mại điện tử là loại hợp đồng đặc thù đáp ứng cho hoạt động thương mại điện tử, một nhánh của hoạt động thương mại nói chung và được triển khai thực hiện thông qua các phương tiện điện tử, thông điệp điện tử để giao dịch và lưu trữ thông tin. Trong thời đại công nghệ đang phát triển rất mạnh hiện nay, thì hoạt động thương mại điện tử đang trở nên vô cùng phát triển, và môi trường thông qua mạng Internet đang là một trong những công cụ phổ biến nhất, đắc lực nhất của hoạt động thương mại điện tử. Với sự phổ cập và phát triển mạnh mẽ của mạng Internet, các thương nhân, doanh nghiệp có thể kết nối, giao dịch dễ dàng với các đối tác, khách hàng ở khắp mọi nơi trên thế giới mà không có sự giới hạn về mặt thời gian và không gian, hay nói một cách khác là họ không cần phải trực tiếp gặp mặt, trao đổi và đàm phán với nhau như hoạt động thương mại truyền thống.
Thông qua công cụ mạng Internet, hiện nay, hoạt động thương mại điện tử được diễn ra khá phổ biến và chính quy trên các website thương mại điện tử. Đồng thời, trong thời gian gần đây hoạt động thương mại, cụ thể là hoạt động bán hàng còn được triển khai rầm rộ thông qua các trang mạng xã hội. Căn cứ theo quy định tại Khoản 8, Điều 3 của Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử (“sau đây gọi tắt là Nghị định 52/2013/NĐ-CP”), thì “Website thương mại điện tử là trang thông tin điện tử được thiết lập để phục vụ một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ, từ trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ đến giao kết hợp đồng, cung ứng dịch vụ, thanh toán và dịch vụ sau bán hàng”. Vào tháng 9/2021, Chính phủ mới ban hành nghị định 85/2021/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 52/2013/NĐ-CP, và sẽ có hiệu lực vào ngày 01/01/2022 (“sau đây gọi là Nghị định 85/2021/NĐ-CP”), nghị định này đang sửa đổi và đưa ra khái niệm website thương mại điện tử bán hàng, đây là một khái niệm gắn liền với khái niệm website thương mại điện tử, hay nói một cách khác website thương mại điện tử bán hàng là một nhánh của website thương mại điện tử, khái niệm cụ thể như sau: “website thương mại điện tử bán hàng là website thương mại điện tử do các thương nhân, tổ chức, cá nhân thiết lập để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình” (Khoản 7 Điều 1, Nghị định 85/2021/NĐ-CP). Bên cạnh website thương mại điện tử bán hàng, thì trong website thương mại điện tử còn có loại website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử “là website thương mại điện tử do thương nhân, tổ chức thiết lập để cung cấp môi trường cho các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành hoạt động thương mại” (Khoản 2, Điều 25 Nghị định 52/2013/NĐ-CP). Khi các cá nhân, tổ chức, thương nhân, doanh nghiệp tiến hành hoạt động thương mại thông qua các loại website thương mại điện tử này, thì các bên vẫn tiến hành ký kết Hợp đồng thương mại điện tử để làm căn cứ xác lập các giao dịch thương mại của họ, và Hợp đồng thương mại điện tử trên các website thương mại điện tử sẽ có những hình thức, phương thức giao kết, xác lập mang tính đặc thù rất riêng biệt.
Theo sự quan sát và tổng hợp của nhóm tác giả thì Hợp đồng thương mại điện thử trên các website thương mại điện tử thường sẽ có cấu trúc, bố cục gồm 03 nội dung chủ yếu: (i) Quy định về điều kiện mua hàng trên website thương mại điện tử; (ii) Điều kiện hình thành hợp đồng thương mại điện tử; (iii) Điều kiện về nghĩa vụ thanh toán, giao hàng. Những nội dung bố cục này thường sẽ được cài đặt cố định sẵn tại các website thương mại điện tử, để cho khách hàng có thể dễ dàng truy cập và tiếp nhận được toàn bộ thông tin cần thiết trước khi chọn mua hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể nào đó. Chính vì vậy, những nội dung này của Hợp đồng thương mại điện tử tại các webiste thương mại điện tử thường sẽ có tính khái quát hóa cao, như dạng hợp đồng mẫu nói chung mà không đi vào từng chi tiết, đặc thù riêng theo từng vụ việc như Hợp đồng thương mại thông thường. Hay nói một cách khác, khi giao dịch tại website thương mại điện tử, thì tất cả các khách hàng, đối tác sẽ cùng ký một mẫu Hợp đồng thương mại điện tử như nhau về các điều khoản cho cùng một loại sản phẩm với nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ tại website này. Ngoài ra, về việc ký kết Hợp đồng thương mại điện tử tại website thương mại điện tử, đang chủ yếu theo hướng một bên đưa ra nội dung, và một bên còn lại chấp nhận. Việc thảo luận, thỏa thuận hay đàm phán để thống nhất nội dung Hợp đồng trong trường hợp này là rất ít khi xảy ra, điều này đã tạo ra một nét rất đặc thù về việc ký kết Hợp đồng thương mại điện tử so với các loại Hợp đồng thương mại khác.
Khi xem xét để xác định những vấn đề pháp lý đối với việc giao kết Hợp đồng thương mại điện tử tại các website thương mại điện tử, thì có sự phân biệt rõ ràng những nội dung đối với thông báo mời đề nghị giao kết hợp đồng, đề nghị giao kết hợp đồng và trả lời giao kết hợp đồng về mặt quy định pháp luật và chủ thể thực hiện trong mỗi giai đoạn. Theo đó, việc các thương nhân, tổ chức, cá nhân đăng tải thông tin hàng hóa, dịch vụ do mình cung cấp trên website thương mại điện tử, với những mô tả chi tiết về thông tin hàng hóa dịch vụ, giá bán, điều kiện bảo hành và thời hạn giao hàng … thì đây chính là thông báo mời đề nghị giao kết hợp đồng. Bởi lẽ những thông tin hàng hóa, dịch vụ này được đăng tải công khai mà không có bất kỳ một bên nhận cụ thể nào vì vậy theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc này được xác định là thương nhân, doanh nghiệp bán hàng, cung ứng dịch vụ đang đưa ra một thông báo mời đề nghị giao kết hợp đồng[4]. Trong khi đó, chủ thể thực hiện việc gửi đề nghị giao kết hợp đồng đối với loại Hợp đồng thương mại điện tử trên website này chính là khách hàng. Khách hàng là những chủ thể tiếp nhận những thông tin được thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng, cung ứng dịch vụ cung cấp thông qua các thông báo mời đề nghị giao kết hợp đồng, và khi phát sinh nhu cầu tiêu dùng đối với hàng hóa, dịch vụ này, thì khách hàng sẽ tiến hành gửi đề nghị giao kết hợp đồng đến cho thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng các chức năng hỗ trợ được cài đặt tại website thương mại điện tử. Cụ thể, có thể xem xét đối với trường hợp giao kết hợp đồng sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điện tử bán hàng, đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng là việc chứng từ điện tử do khách hàng khởi tạo và gửi đi bằng cách sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến[5]. Trong trường hợp cụ thể này, việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thuộc về thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng. Và để trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng thì thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng phải phản hồi cung cấp cho khách hàng những thông tin như: (i) danh sách toàn bộ hàng hóa hoặc dịch vụ khách hàng đặt mua, số lượng, giá của từng sản phẩm và tổng giá trị hợp đồng; (ii) Thời hạn giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ; (iii) Thông tin liên hệ để khách hàng có thể hỏi về tình trạng thực hiện hợp đồng khi cần thiết[6]. Việc xác định rõ các giai đoạn giao kết hợp đồng và chủ thể thực hiện từng giai đoạn như trên có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng, bởi lẽ có thể thấy thời điểm giao kết hợp đồng là “cột mốc” để xác định được thời điểm mà một hợp đồng phát sinh hiệu lực pháp lý nhằm ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên. Theo đó, đối với Hợp đồng thương mại điện tử được giao kết trên website thương mại điện tử thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định là thời điểm khách hàng nhận được trả lời của thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng về việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng[7].
Chẳng hạn, liên hệ đến một quy trình mua hàng trực tiếp trên website thương mại điện tử cụ thể, thì khi một khách hàng đặt đơn hàng trên website thương mại điện tử Tiki (“sau đây gọi là Tiki”), khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm mà mình muốn mua sau khi đã đọc xong những thông tin cụ thể của hàng hóa, giá cả, phương thức, thời gian giao hàng cụ thể, và khách hàng sẽ tiến hành đặt hàng với những thao tác cung cấp đầy đủ các thông tin cá nhân đầy đủ được cài đặt bằng các chức năng trên Tiki. Quy trình tiếp theo sau đó, Tiki sẽ thực hiện việc gửi thư điện tử vào hộp thư điện tử (email) mà khách hàng đã cung cấp trong quá trình đặt hàng với nội dung cụ thể về toàn bộ danh sách hàng hoá, số lượng, giá từng sản phẩm, cùng với tổng giá trị các mặt hàng mà khách hàng lựa chọn; kèm theo đó là thời hạn giao hàng và thông tin để khách hàng kiểm tra đơn hàng của mình. Thời điểm giao kết hợp đồng lúc này chính là thời điểm khách hàng nhận được trả lời của Tiki qua hộp thư điện tử (email). Khi đó, các bên đã hoàn tất quá trình giao kết hợp đồng và Hợp đồng thương mại điện tử giữa khách hàng và Tiki đã được ký kết, xác lập.
Theo những nội dung phân tích ở trên, dường như chúng ta thấy rằng việc giao kết Hợp đồng thương mại điện tử qua website thương mại điện tử đang được thực hiện theo phương thức bên bán đưa ra nội dung hợp đồng, và bên mua chấp nhận. Trên thực tế diễn ra, chúng ta ít thấy được sự trao đổi, đàm phán nào được đưa ra giữa các bên liên quan đến nội dung hợp đồng. Tuy nhiên, dựa trên quy định của pháp luật hiện hành thì khách hàng hoàn toàn có thể nêu các ý kiến của mình đối với nội dung hợp đồng mà thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng, cung ứng dịch vụ đang đưa ra trên website thương mại điện tử. Cụ thể, các thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng, cung ứng dịch vụ tại website thương mại điện tử cần phải đảm bảo về cơ chế rà soát và xác nhận nội dung của Hợp đồng thương mại điện tử, theo đó, trên website này cần phải cho phép khách hàng rà soát, sửa đổi, bổ sung và xác nhận nội dung của giao dịch trước khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến[8]. Ngoài ra, đối với việc xác lập Hợp đồng thương mại điện tử trên các website thương mại có chức năng đặt hàng trực tuyến thì thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng, cung ứng dịch vụ cần công bố chi tiết đầy đủ thông tin về điều kiện giao dịch chung đối với những hàng hóa, dịch vụ đang giới thiệu tại website này, đồng thời phải có cơ chế để khách hàng đọc và bày tỏ sự đồng ý riêng với các điều kiện giao dịch chung trước khi gửi đề nghị giao kết hợp đồng[9]. Như vậy có thể thấy, đối với Hợp đồng thương mại điện tử trên các website thương mại, các bên vẫn có thể trao đổi, đàm phán đối với nội dung của hợp đồng trong trường hợp chưa thấy thỏa đáng với những nội dung mà một bên đang đưa ra. Điều này, đảm bảo cho nguyên tắc tự nguyên, thỏa thuận, đôi bên cùng có lợi trong việc giao kết Hợp đồng thương mại điện tử theo quy định của pháp luật về hợp đồng nói chung. Tuy nhiên, sự thỏa thuận, trao đổi này cũng chỉ giới hạn trong một số nội dung, mà không được mở rộng ra tất cả các nội dung như Hợp đồng thương mại thông thường, tiêu biểu là các nội dung liên quan đến các chế tài phạt vi phạm, nhóm tác giả sẽ phân tích thêm ở mục 3 của bài viết.
Đối với Hợp đồng dịch vụ thương mại điện tử sau khi các bên đã ký kết, xác lập hợp đồng với nhau, trường hợp khách hàng không còn nhu cầu tiếp tục sử dụng dịch vụ nữa, thì vẫn hoàn toàn có thể thực hiện việc chấm dứt hợp đồng này theo đúng phương thức ban đầu mà họ xác lập, ký kết Hợp đồng dịch vụ thương mại điện tử. Pháp luật hiện hành đang có quy định khá cụ thể cho việc chấm dứt hợp đồng trong trường hợp này, cụ thể những thương nhân, tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ thông qua website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử phải có nghĩa vụ cung cấp, xây dựng những chức năng, công cụ trực tuyến tại các website này để khách hàng có thể thao tác và gửi được những nội dung thông báo về việc chấm dứt hợp đồng khi họ không còn nhu cầu sử dụng dịch vụ nữa. Đối với hình thức của các công cụ, chức năng này, thì thương nhân, tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ hoàn toàn có thể thiết kế theo mong muốn của mình, nhưng cần phải đảm bảo được các điều kiện do pháp luật quy định như: (i) Cho phép khách hàng lưu trữ và hiển thị thông báo chấm dứt hợp đồng trong hệ thống thông tin của mình sau khi gửi đi; và (ii) Có cơ chế phản hồi để khách hàng biết thông báo chấm dứt hợp đồng của mình đã được gửi[10]. Ngoài ra, khi xây dựng website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, thì thương nhân, tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ cần phải có thêm nghĩa vụ xây dựng đầy đủ nội dung và đăng tải công khai một cách minh bạch, đầy đủ thông tin về quy trình, thủ tục mà khách hàng cần thực hiện để có thể chấm dứt Hợp đồng dịch vụ thương mại điện tử đã ký kết trước đó, cụ thể: (i) Các trường hợp thương nhân, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ chấm dứt hợp đồng và cách thức giải quyết hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng này; (ii) Thời điểm hợp đồng chấm dứt hiệu lực và cách thức thanh toán phí dịch vụ trong trường hợp khách hàng là bên chấm dứt hợp đồng; (iii) Nếu website không công bố rõ thời điểm hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong trường hợp khách hàng là bên chấm dứt hợp đồng, thì thời điểm khách hàng gửi thông báo được coi là thời điểm hợp đồng chấm dứt[11]. Như vậy có thể thấy, việc chấm dứt Hợp đồng thương mại điện tử trên các website thương mại cũng đã mang những nét đặc thù rất riêng so với Hợp đồng thương mại nói chung.
Như đã nhắc đến ở trên, hoạt động thương mại điện tử ngoài việc được tổ chức triển khai chính quy thông qua các website thương mại điện tử, thì hiện nay còn được triển khai rầm rộ, sôi động và phổ biến tại các trang mạng xã hội. Đây là một hiện tượng kinh doanh chưa có bề dày lịch sử, hay nói một cách khác là mới xuất hiện trong thời gian ngắn vừa qua, bởi lẽ đó, mà hiện chưa có nhiều quy định pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong hoạt động thương mại triển khai trên các trang mạng xã hội này. Theo quan điểm của nhóm tác giả, thì có thể đưa ra khái niệm “hoạt động thương mại điện tử tại các mạng xã hội” là một loại hình kinh doanh trong đó, các thương nhân, tổ chức, cá nhân thực hiện việc mua bán, cung ứng dịch vụ tại các mạng xã hội thông qua công cụ Internet, đặc điểm của hình thức này là cả thương nhân, tổ chức, cá nhận bán hàng, cung ứng dịch vụ và khách hàng đều sử dụng mạng xã hội. Việc trao đổi, mua bán diễn ra trên các trang mạng xã hội giữa bên mua và bên bán thì được hiểu là các bên đã có xác lập Hợp đồng với nhau, và hợp đồng này vẫn có thể xác định là Hợp đồng thương mại điện tử. Mặc dù chưa có những quy định pháp luật chuyên ngành về vấn đề giao kết, thực hiện hợp đồng trong trường hợp cụ thể này, tuy nhiên, nhóm tác giả cho rằng, vẫn có thể áp dụng pháp luật về hợp đồng nói chung trong pháp luật dân sự, thương mại và các văn bản hướng dẫn liên quan đến thương mại điện tử cho các quan hệ phát sinh giữa các thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng, cung ứng dịch vụ và khách hàng trên các trang mạng xã hội. Tuy nhiên, sẽ có nhiều trường hợp đặc thù phát sinh, làm cho các quy định chung của pháp luật dân sự, pháp luật thương mại chưa có quy định để điều chỉnh.
- Những khó khăn trong việc áp dụng Hợp đồng thương mại điện tử trên thực tiễn
Có thể nhận thấy một cách rõ ràng rằng, trong bối cảnh hòa nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của công nghệ 4.0 với các mạng viễn thông Internet, đã giúp cho hoạt động giao thương, mua bán trong quốc gia và trên bình diện quốc tế trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn bao giờ hết. Không thể phủ nhận giao dịch thương mại điện tử đã mang lại nhiều lợi ích to lớn, giúp các thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động thương mại giảm được nhiều chi phí, tiết kiệm thời gian. Đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp với tốc độ lây lan nhanh chóng trên toàn cầu hiện nay khiến cho việc giao thương, hoạt động thương mại truyền thống với phương thức tiếp xúc trực tiếp không mang được tính khả thi, thì hoạt động thương mại điện tử đang là giải pháp tối ưu và thể hiện được vai trò hữu hiệu trong bối cảnh này. Tuy nhiên, giao dịch thương mại điện tử cũng tồn tại những hạn chế nhất định, và dẫn đến việc thực hiện Hợp đồng thương mại điện tử cũng có những khó khăn. Trong phạm vi nhỏ hẹp của bài viết này, nhóm tác giả đưa một số các quan điểm cá nhân về những điểm khó khăn trong thực hiện Hợp đồng thương mại điện tử đối với các bên trong giao dịch điện tử như sau.
Thứ nhất, về vấn đề kiểm soát chất lượng, đối tượng của Hợp đồng thương mại điện tử.
Có thể thấy rõ, việc giao kết Hợp đồng thương mại điện tử trên các website thương mại và trên các trang mạng xã hội, chủ yếu dựa vào “niềm tin” và “uy tín” do bên bán hàng, cung ứng dịch vụ tự quảng cáo, tự đưa các nội dung về hàng hóa lên các website và mạng xã hội. Có rất nhiều các website hiện nay, chưa có được sự rà soát, kiểm tra thông tin của người bán kỹ lưỡng, cũng như chưa thể kiểm soát được chất lượng, đối tượng của các mặt hàng đang giao dịch, buôn bán trên các website và mạng xã hội này. Ngoài ra, nhiều các website và mạng xã hội cũng chưa có cơ chế bảo vệ cho người mua hàng tốt, để khi người mua hàng đã giao kết hợp đồng có thể đòi hỏi những quyền lợi liên quan. Đặc biệt, việc bán hàng, cung ứng dịch vụ thông qua các mạng xã hội đang hoạt động theo kiểu “tự phát” mà chưa có sự quản lý, kiểm soát của các đơn vị sở hữu mạng xã hội này, cũng như là từ nhà nước. Từ đó, dẫn đến việc hàng lậu, hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ… đang được các thương nhân, tổ chức, cá nhân đăng một cách công khai nhằm mụ đích bán hàng trên các trang mạng xã hội (có thể kể một bài mạng xã hội điển hình hiện nay như Facebook, Zalo…) hay trên các website thương mại điện tử. Hàng hóa này chính là đối tượng của Hợp đồng thương mại điện tử, và chất lượng hàng hóa chưa được đảm bảo, dẫn đến đang gây ảnh hưởng rất nhiều đến những người mua hàng. Vì không giao dịch trực tiếp, mà thông qua mạng “ảo”, khác với phương thức mua bán, giao dịch truyền thống, người mua hàng không thể được tận mắt xem xét, kiểm tra hàng trước khi đặt mua, nên rất nhiều người tiêu dùng hiện nay đang bị dính vào những “cú lừa”. Khi họ tiến hành giao dịch, ký kết Hợp đồng thương mại điện tử, thậm chí có nhiều trường hợp người mua hàng đã thanh toán tiền trước, nhưng khi nhận hàng thì nhận phải những hàng hóa mà chất lượng không như cam kết hoặc thậm chí người bán đã nhận tiền đầy đủ nhưng không giao hàng. Xảy ra thực trạng này, nguyên do dễ thấy là vì việc giao dịch không rõ ràng, điều khoản Hợp đồng thương mại điện tử không đảm bảo … làm cho người mua hàng rơi vào tình trạng không cho phép được đổi trả hàng kém chất lượng hoặc có những trường hợp được đổi trả thì lại phải đền bù cho người bán một mức phí. So với việc mua hàng trực tiếp theo hình thức hoạt động thương mại truyền thống, thì dường như mua hàng trực tuyến qua các websiste thương mại điện tử, các trang mạng xã hội đang tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn.
Đây có thể được xem là một vấn đề khá nhức nhối hiện tại, bởi lẽ đã có tồn tại một Hợp đồng thương mại điện tử trên thực tế, nhưng khi xảy ra những trường hợp bị giao hàng kém chất lượng, không đúng như mô tả, thì có nhiều trường hợp khách hàng vẫn không đòi hỏi được quyền lợi chính đáng của mình đối với giao dịch này.
Thứ hai, về vấn đề xác định chủ thể thực hiện giao dịch và ký kết Hợp đồng thương mại điện tử.
Như các phân tích ở trên, việc giao kết Hợp đồng thương mại điện tử sẽ thông qua các chức năng, công cụ được cài đặt trên các website thương mại, hoặc việc xác lập hợp đồng thông qua các trao đổi bằng các công cụ nhắn tin trên các trang mạng xã hội vì vậy các bên sẽ không gặp nhau, khiến cho người bán hàng và người mua hàng không hiểu biết rõ về đối phương, khó kiểm tra về năng lực chủ thể của đối phương. Thực trạng hiện nay cho thấy, rất nhiều thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng, cung ứng dịch vụ trên các website thương mại, trang mạng xã hội thực hiện việc khai báo thông tin về nhân thân và địa chỉ, hoặc đăng ký hoạt động kinh doanh không chính xác, nhiều trường hợp liên tục thay đổi địa điểm… Dẫn đến việc sau khi giao kết Hợp đồng thương mại điện tử rồi, nếu một bên cố tình không thực hiện những nghĩa vụ đã cam kết, như trường hợp giao hàng không đúng chất lượng mà nhóm tác giả đã phân tích ở trên, thì bên còn lại khó có thể yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ trong việc giải quyết các vấn đề sai phạm, tranh chấp có liên quan.
Thứ ba, về vấn đề thực hiện nghĩa vụ trong Hợp đồng thương mại điện tử đã giao kết.
Khi đánh giá về việc thực hiện nghĩa vụ trong Hợp đồng thương mại điện tử, thì trong rất nhiều các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng này, nhóm tác giả lựa chọn đánh giá một nghĩa vụ tiêu biểu của hợp đồng mua bán hàng hóa thông qua các website thương mại điện tử hoặc các trang mạng xã hội, đó là nghĩa vụ giao hàng và nhận hàng. Có thể thấy, phần lớn các website thương mại điện tử hoặc các thương nhân, tổ chức, cá nhân kinh doanh trên các trang mạng xã hội đang triển khai việc giao và nhận hàng hóa thông qua các đơn vị vận chuyển hàng. Vì thông qua một đơn vị trung gian để thực hiện nghĩa vụ này, nên ít nhiều bên bán cũng đang rơi vào tình trạng “bị động” đối với việc thực hiện nghĩa vụ đã giao kết trong Hợp đồng thương mại điện tử. Rất nhiều trường hợp, bên bán đã thông báo rõ về thời gian giao hàng, tuy nhiên trên thực tế thì thời gian này lại đang bị phụ thuộc rất nhiều vào đơn vị vận chuyển. Như giai đoạn giãn cách vừa qua, riêng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, bản thân tác giả đặt mua những sản phẩm tiêu dùng, sách giáo khoa trên một website thương mại điện tử, đã thanh toán đầy đủ, nhưng thời gian giao hàng lên tới hơn một tháng, cho một khoảng cách địa lý không xa. Bên bán đã dùng mọi biện pháp để yêu cầu đơn vị vận chuyển giao hàng, nhưng đều thất bại. Việc chậm trễ giao hàng xuất phát từ đơn vị vận chuyển này, sẽ mang đến một rủi ro cho bên bán, khi khách hàng chờ đợi quá lâu, họ có thể sẽ từ chối nhận hàng. Đây là một thực tế đang diễn ra, và mang lại khá nhiều thiệt hại cho người bán hàng, khi họ phải chi trả chi phhí vận chuyển hai chiều: chiều đi – chiều hoàn về, cũng như đã mất các chi phí liên quan việc chuẩn bị hàng hóa để giao. Đặc biệt hơn nữa có nhiều trường hợp do vận chuyển qua lại nhiều lần mà làm cho hàng hóa bị hư hỏng. Ngoài ra, trong rất nhiều trường hợp, đơn vị vận chuyển và các nhân viên không có được sự cẩn trọng trong việc giao hàng dẫn đến việc hàng hóa khi giao đến người mua không còn được sự nguyên vẹn về hình thức hoặc chất lượng, mà nhiều trường hợp giao dịch, người mua không được kiểm tra khi nhận hàng, dẫn đến việc nhận hàng kém chất lượng. Việc này, đã hình thành rất nhiều sự tranh chấp, mâu thuẫn giữa các bên trong Hợp đồng thương mại điện tử đã giao kết.
Thứ tư, về việc áp dụng các biện pháp chế tài thương mại khi một bên vi phạm Hợp đồng thương mại điện tử.
Về mặt lý luận, có thể xác định được rõ ràng rằng, Hợp đồng thương mại điện tử cũng được áp dụng các biện pháp chế tài vi phạm hợp đồng tương đồng với Hợp đồng thương mại truyền thống theo quy định tại Điều 292 Luật Thương Mại 2005. Hay nói một cách rõ ràng hơn, khi giao kết Hợp đồng thương mại điện tử, cho dù là giao kết thông qua các website thương mại điện tử hay các trang mạng xã hội, thì các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận để đưa các quy định, điều khoản về phạt vi phạm vào nội dung hợp đồng nhằm nâng cao tính răn đe, ràng buộc hơn trách nhiệm của các bên. Thế nhưng, đối với Hợp đồng thương mại điện tử được giao kết trên các website thương mại điện tử và các trang mạng xã hội, như nội dung mà nhóm tác giả đã phân tích ở mục 2, có thể thấy việc thỏa thuận để bổ sung vào nội dung hợp đồng mà thương nhân, tổ chức, cá nhân đã đăng tải công khai trên các website là điều rất khó khăn. Từ đó cho thấy, dường như việc áp dụng chế định phạt vi phạm này vào các giao dịch tại các website thương mại điện tử và các trang mạng xã hội chưa được quan tâm xây dựng, nhằm nâng cao hơn nữa tính răn đe, cũng như ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia giao kết Hợp đồng thương mại điện tử trong trường hợp này.
Thứ năm, về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Hợp đồng thương mại điện tử.
Cũng tương tự như việc áp dụng các biện pháp chế tài thương mại, về mặt lý luận, thì Hợp đồng thương mại điện tử được giao kết trên website thương mại điện tử hoặc các trang mạng xã hội cũng có thể được áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tương tự với Hợp đồng thương mại truyền thống theo quy định tại Điều 292 Bộ Luật Dân sự 2015. Đồng nghĩa với việc khi giao kết Hợp đồng thương mại điện tử tại các website thương mại điện tử hay các trang mạng xã hội, thì các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận để đưa các quy định, điều khoản về các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ vào nội dung hợp đồng nhằm đảm bảo việc các bên sẽ hoàn thành nghĩa vụ một cách cẩn trọng và nhiệt tình nhất. Tuy nhiên, cũng tương tự ở nội dung trên, chúng ta có thể thấy rằng Hợp đồng thương mại điện tử được giao kết trên các website thương mại điện tử và các trang mạng xã hội đang được áp dụng như kiểu hợp đồng mẫu, vì vậy việc thỏa thuận để bổ sung vào nội dung hợp đồng mà thương nhân, tổ chức, cá nhân đã đăng tải công khai trên các website là điều chưa thấy xảy ra. Còn tại các giao dịch mua bán thông qua mạng xã hội, qua khảo sát và tìm hiểu, nhóm tác giả thấy có một số cá nhân bán hàng hiện cũng có áp dụng biện pháp đặt cọc trong giao dịch liên quan đến mua bán hàng hóa cần phải đặt hàng trước từ nước ngoài về để tránh việc bên mua hàng đã đặt hàng nhưng sau đó từ chối không nhận hàng. Tuy nhiên, nhìn chung, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với những Hợp đồng thương mại điện tử trên các website thương mại và trên mạng xã hội cũng chưa được quan tâm áp dụng. Từ đó, những vụ việc “lừa đảo” hay tranh chấp từ hoạt động này xảy ra ngày càng nhiều.
Kết luận
Bài viết tập trung phân tích một cách khái quát nhất về các vấn đề pháp lý và đánh giá thực tiễn mà thương nhân, tổ chức, cá nhân thường gặp phải khi tham gia vào các giao dịch thương mại điện tử, đặc biệt là các giao dịch trên các website thương mại điện tử và các trang mạng xã hội. Thông qua những phân tích đánh giá này, bài viết nêu ra một số bất cập điển hình còn tồn tại trong các giao dịch này, để từ đó giúp các bên khi tham giao vào các hoạt động thương mại điện tử nói chung và hoạt động thương mại trên các website thương mại điện tử nói riêng đánh giá, nhận diện được bản chất của các giao dịch thương mại điện tử, và có những biện pháp phòng ngừa rủi ro nhất định khi tham gia vào các giao dịch này.
Tài liệu tham khảo
- Bộ Luật Dân Sự năm 2015.
- Luật Thương Mại năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Luật Giao Dịch Điện Tử năm 2005.
- Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về Thương mại điện tử.
- Nghị định 85/2021/NĐ-CP ngày 25/9/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về thương mại điện tử.
- Trần Văn Biên (2010), “Về khái niệm hợp đồng điện tử”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 08/2010.
- Lê Thị Kim Hoa (2008), “Hợp đồng thương mại điện tử và các biện pháp hạn chế rủi ro”, Tạp chí Luật học, số 11/2008.
[1] Khoản 1 Điều 11 Luật mẫu về Thương mại điện tử năm 1996 quy định “trong khuôn khổ hình thành hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, một chào hàng và chấp nhận một chào hàng được phép thể hiện bằng phương tiện các thông điệp dữ liệu. Khi một thông điệp dữ liệu được sử dụng trong việc hình thành một hợp đồng, thì giá trị và hiệu lực thi hành của hợp đồng đó không thể bị phủ nhận chỉ với lý do rằng một thông điệp dữ liệu đã được dùng vào mục đích ấy”.
[2] Điều 12 Luật Giao Dịch Điện Tử năm 2005 quy định “trường hợp pháp luật yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết”.
[3] Điều 385 Bộ Luật Dân Sự 2015, “hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”; Điều 33 Luật Giao Dịch Điện Tử năm 2005, “hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu”; Khoản 1 Điều 3 Luật Thương Mại 2005, “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
[4] Điều 12 Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về Thương mại điện tử – “Một thông báo bằng chứng từ điện tử về đề nghị giao kết hợp đồng mà không có bên nhận cụ thể thì chỉ là thông báo mời đề nghị giao kết hợp đồng. Thông báo đó chưa được coi là đề nghị giao kết hợp đồng, trừ khi bên thông báo chỉ rõ tại thông báo đó trách nhiệm của mình trong trường hợp nhận được trả lời chấp nhận” và Điều 15 Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về Thương mại điện tử – “Thông báo mời đề nghị giao kết hợp đồng: Nếu một website thương mại điện tử có chức năng đặt hàng trực tuyến áp dụng cho từng hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể được giới thiệu trên website đó, thì các thông tin giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ và các điều khoản liên quan được coi là thông báo mời đề nghị giao kết hợp đồng của thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng theo quy định tại Điều 12 Nghị định này”
[5] Điều 17 Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về Thương mại điện tử.
[6] Điều 19 Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về Thương mại điện tử.
[7] Điều 21 Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về Thương mại điện tử.
[8] Điều 18 Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về Thương mại điện tử.
[9] Điều 32 Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về Thương mại điện tử.
[10] Khoản 1, Điều 22 Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về Thương mại điện tử.
[11] Khoản 2, Điều 22 Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về Thương mại điện tử.
Bài viết bổ ích, cám ơn Luật sư Đoàn đã chia sẻ.