LS VŨ VĂN ĐOÀN (Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh) – Sau khi đọc bài viết: “Bàn về đường lối giải quyết vụ án chia tài sản chung là đối tượng của hợp đồng tặng cho có điều kiện” của tác giả Trần Ngọc Thành đăng ngày 18/05/2023 [https://tapchitoaan.vn/thuc-hien-hop-dong-cho-tang-co-dieu-kien-ra-sao8563.html], tôi xin có một số ý kiến về đường lối giải quyết như sau:
Tình huống mà tác giả Trần Ngọc Thành đưa ra có nội dung như sau: “Ông A và bà B có ngôi nhà được xây dựng trên thửa đất rộng 200m2, đã được UBND huyện X, tỉnh Y cấp GCN QSDĐ và quyền sở hữu nhà. Ông A và bà B lập hợp đồng tặng cho con gái duy nhất là chị C và chồng là anh D, trong đó có nội dung: nhà đất không được chuyển nhượng và để sau này thờ cúng bố mẹ, ông bà. Hợp đồng tặng cho được công chứng hợp lệ và GCN QSDĐ, quyền sở hữu nhà đã được hiệu chỉnh mang tên vợ chồng C và D. Sau đó, ông A và bà B mất. Nay vợ chồng C và D ly hôn nên anh D yêu cầu chia tài sản chung là ngôi nhà và đất, trong đó anh D đề nghị được chia bằng hiện vật và thửa đất có hoàn toàn có thể chia bằng hiện vật”.
- Giá trị pháp lý của điều kiện tặng cho
Điều 457 BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận”.
Đồng thời tại Điều 462 BLDS năm 2015 quy định như sau: “1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
- Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
- Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Từ các căn cứ nêu trên thì có thể nhận định như sau:
Thông thường khi tặng cho tài sản là bất động sản, bên tặng cho sẽ không yêu cầu bên được tặng cho phải “đền bù”, nghĩa là không yêu cầu bên được tặng cho phải thực hiện trả tiền hay thực hiện một công việc nhất định (Điều 457 BLDS 2015). Tuy nhiên, BLDS 2015 cho phép bên tặng cho tài sản khi tặng cho có quyền kèm điều kiện tặng cho (điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội). Về tình huống ông A, bà B lập hợp đồng tặng cho bất động sản cho vợ chồng chị C, anh D kèm điều kiện “không được chuyển nhượng và để sau này thờ cúng bố mẹ, ông bà”.
Đối với điều kiện “thờ cúng bố mẹ, ông bà”: Đây là phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, con cái dù không được bố mẹ tặng cho tài sản thì xét về dưới góc độ đạo đức vẫn phải có nghĩa vụ, bổn phận chăm sóc, thờ cúng ông bà, tổ tiên. Vì vậy đây là điều kiện phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.
Về điều kiện “không được chuyển nhượng”: Đối với hợp đồng tặng cho bất động sản thông thường, sau khi bên được tặng cho được tặng cho tài sản, bên được tặng cho hoàn thành thủ tục đăng ký, sang tên, hoàn thành nghĩa vụ đóng thuế, được cấp giấy chứng nhận. Thời điểm này bên được tặng cho sẽ có toàn quyền định đoạt tài sản của mình (bao gồm quyền quản lý, sử dụng, mua bán, chuyển nhượng, thế chấp, góp vốn…). Điều kiện “không được chuyển nhượng”, nếu xét một cách tổng thể và đặt trong bối cảnh hợp đồng tặng cho tài sản kèm điều kiện của ông A, bà B, tác giả cho rằng điều kiện tặng cho “không được chuyển nhượng” là phù hợp với quy định của pháp luật bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, sự công nhận của cơ quan nhà nước: Hợp đồng tặng cho có điều kiện được tổ chức hành nghề công chứng công chứng chứng thực hợp pháp, được cơ quan đăng ký đất đai (thường là Chi nhánh VPĐKĐĐ cấp quận) cấp giấy chứng nhận, thông thường trong giấy chứng nhận cũng thể hiện rõ điều kiện tặng cho. Như vậy, xét về mặt văn bản, điều kiện tặng cho “không được chuyển nhượng” đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận là hợp pháp. Nếu điều kiện tặng cho này vi phạm điều cấm của luật thì chị C, anh D sẽ khó có thể được đứng tên trên giấy chứng nhận.
Thứ hai, về mặt ý chí của ông A, bà B và chị C, anh D: điều kiện chính và quan trọng nhất khi ông A, bà B đồng ý tặng cho tài sản là vợ chồng chị C, anh D phải cam kết “không được chuyển nhượng thửa đất được tặng cho này”, đồng thời phải có nghĩa vụ dùng tài sản tặng cho để thờ cúng bố mẹ, ông bà. Anh D, chị C hoàn toàn hiểu rõ và đồng ý với điều kiện này của ông A, bà B. Như vậy, về mặt ý chí anh D hoàn toàn đồng ý và cam kết sẽ tuân thủ điều kiện của ông A, bà B đặt ra này khi ký hợp đồng tặng cho.
Thứ ba, căn cứ anh D xác lập quyền đối với thửa đất được tặng cho: rõ ràng trong trường hợp này thửa đất mà anh D được đứng tên trên giấy chứng nhận cùng chị C không phải do anh chị mua bán hay nhận chuyển nhượng mà có (anh D, chị C không phải bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng). Tài sản chung hợp nhất này là do ông A, bà B tặng cho kèm điều kiện nhất định. Nếu không có việc tặng cho kèm điều kiện thì anh D sẽ không có bất kỳ quyền gì đối với tài sản này (bao gồm cả quyền yêu cầu chia tài sản khi ly hôn với chị C).
Đồng thời tại khoản 3 Điều 462 BLDS 2015 quy định “trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Nếu anh D, chị C không thực hiện đúng cam kết khi nhận tặng cho, tức là cố tình chuyển nhượng tài sản tặng cho hoặc không dùng tài sản này để thờ cúng cha mẹ, ông bà thì ông A, bà B có quyền đòi lại tài sản này.
Như vậy xét về bản chất thì hợp đồng tặng cho kèm điều kiện sẽ giới hạn một số quyền nhất định của người được tặng cho. Trong trường hợp này, mặc dù vợ chồng chị C, anh D không được chuyển nhượng tài sản được tặng cho, tuy nhiên anh D, chị C vẫn được quyền quản lý, sử dụng, khai thác thửa đất được tặng cho này. Do đó, theo tác giả “điều kiện không được chuyển nhượng” không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và điều kiện này cần được các bên tôn trọng và thực hiện.
- Cơ sở pháp lý đối với yêu cầu chia tài sản chung được tặng cho bằng hiện vật của anh D
Tại khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (Luật HNGD) thì “tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung” và khoản 2, 3 Điều 59 Luật HNGD 2014 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi; tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch”.
Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi và chia bằng hiện vật. Trong điều kiện bình thường thì yêu cầu của anh D về việc đề nghị được chia bất động sản là tài sản chung có nguồn gốc từ việc được tặng cho bằng hiện vật là hợp pháp (bởi thửa đất có hoàn toàn có thể chia bằng hiện vật được). Tuy nhiên, theo tác giả như đã phân tích tại mục 1, việc chia tài sản của anh D chỉ hợp tình, hợp lý và hợp pháp nếu đáp ứng được một số điều kiện như sau: Một là, sau khi chia tài sản thì anh D vẫn cam kết là không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất này cho bên thứ ba (thật ra anh D cũng đã cam kết điều này khi nhận tặng cho từ ông A, bà B); Hai là, anh D cam kết vẫn dùng tài sản này vào việc thờ cúng như ban đầu cam kết khi nhận tài sản được tặng cho này từ ông A, bà B.
Quan điểm này của tác giả dựa vào các căn cứ sau: thứ nhất, tôn trọng tuyệt đối ý chí của người tặng cho tài sản nếu ý chí là là hợp pháp, không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội; thứ hai, khi một người đã cam kết thì cần phải tuân thủ đúng cam kết của mình, hạn chế việc lợi dụng cam kết hoặc “kẽ hở” của pháp luật để bội tín; thứ ba, mục đích ban đầu của ông A, bà B trong việc tặng cho tài sản xét ở một góc độ này đó cũng xuất phát từ việc chị C, anh D là vợ chồng. Việc để hai vợ chồng cùng đứng tên trên giấy chứng nhận, cam kết không được chuyển nhượng và dùng tài sản này lo việc thờ cúng là để đề cao trách nhiệm và sự gắn kết của chị C, anh D. Nếu chấp nhận chia tài sản này, sau đó các bên (chị C, anh D) tự do chuyển nhượng tài sản này thì đó là sự bất công và không công bằng cho vợ chồng ông A, bà B. Xét về góc độ xã hội, trong quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng chị C, anh D, nếu chấp nhận chia tài sản này có thể là “dấu chấm hết” cho mối quan hệ hôn nhân này.
Về bản chất, chị C, anh D nhận được tài sản này không phải bỏ ra bất kỳ chi phí nào (ngoài bỏ chi phí đăng bộ sang tên, công chứng nếu có, nhưng không đáng kể), do đó xét về góc độ thiệt hại thì anh C, chị D không có thiệt hại đáng kể. Ngược lại, anh C, chị D vẫn có quyền lợi là được quyền khai thác, quản lý, sử dụng thửa đất.
Do đó, để giải quyết yêu cầu của anh D, Toà án cần xem xét nhìn nhận vụ việc ở nhiều góc độ (về mặt ý chí, cam kết của các bên; về thiệt hại các bên phải gánh chịu; nhìn nhận ở góc độ đạo đức, hoặc góc độ xã hội là có thể dùng chính tài sản này để hàn gắn mối quan hệ trên bờ vực tan vỡ của vợ chồng giữa chị C, anh D) và từ những góc nhìn đa chiều, khách quan và dựa theo các quy định pháp luật hiện hành, Toà án sẽ đưa ra phán quyết thuyết phục nhất.